NHỮNG ĐIỂM YẾU CỐT LÕI CẦN KHẮC PHỤC ĐỂ DOANH NGHIỆP LOGISTICS VIỆT NAM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VƯƠN RA QUỐC TẾ

NHỮNG ĐIỂM YẾU CỐT LÕI CẦN KHẮC PHỤC ĐỂ DOANH NGHIỆP LOGISTICS VIỆT NAM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ VƯƠN RA QUỐC TẾ

Ngành logistics giữ vai trò nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - thương mại, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong tiến trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, khi phân tích thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp logistics Việt Nam trong những năm gần đây, có thể nhận thấy một số điểm yếu mang tính hệ thống và cấu trúc đang kìm hãm sự phát triển bền vững của toàn ngành. Việc nhận diện và phân tích sâu những điểm yếu này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang tính thực tiễn cao nhằm hoạch định các chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực nội tại cho doanh nghiệp logistics Việt Nam. Cụ thể gồm 6 nhóm điểm yếu lớn như sau:

1. QUY MÔ DOANH NGHIỆP NHỎ, NĂNG LỰC TÀI CHÍNH HẠN CHẾ, CHƯA TẠO ĐƯỢC LỢI THẾ VỀ KINH TẾ QUY MÔ

Một đặc điểm nổi bật dễ nhận thấy là phần lớn doanh nghiệp logistics Việt Nam hiện nay đều hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí rất nhỏ. Theo thống kê từ Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), có đến hơn 90% doanh nghiệp logistics trong nước có quy mô vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, nhân sự từ vài người đến dưới 50 người, và năng lực tài chính hạn chế. Điều này tạo ra nhiều hệ lụy tiêu cực:

  • Không đủ năng lực đầu tư vào công nghệ hiện đại, phương tiện vận chuyển chuyên dụng, phần mềm quản lý logistics và hạ tầng chuỗi cung ứng.
  • Không có khả năng mở rộng quy mô hoạt động ra thị trường khu vực và quốc tế.
  • Dễ bị tổn thương trước các biến động thị trường, nhất là khi xảy ra khủng hoảng kinh tế hoặc đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu.

Kết quả là các doanh nghiệp logistics Việt Nam thường chỉ đảm nhận vai trò nhỏ lẻ trong chuỗi vận chuyển, làm mất đi cơ hội tham gia sâu và kiểm soát các chuỗi giá trị toàn cầu.

2. PHẠM VI HOẠT ĐỘNG GIỚI HẠN, CHỦ YẾU TẬP TRUNG TRONG NƯỚC, KHÓ VƯƠN RA THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ

  • Phần lớn doanh nghiệp logistics Việt Nam chỉ hoạt động trong phạm vi nội địa hoặc đảm nhận một vài công đoạn đơn giản trong chuỗi cung ứng xuyên biên giới. Việc thiếu mạng lưới đại lý quốc tế, không có văn phòng chi nhánh hoặc đại diện tại các trung tâm logistics toàn cầu (như Singapore, Rotterdam, Thượng Hải, Dubai) khiến doanh nghiệp khó vươn ra thị trường nước ngoài.
  • Ngoài ra, rào cản về ngôn ngữ, pháp lý quốc tế, năng lực đàm phán và thiếu đội ngũ nhân sự am hiểu thương mại quốc tế cũng là những yếu tố khiến doanh nghiệp logistics trong nước e ngại mở rộng quy mô ra nước ngoài. Điều này khiến Việt Nam phần lớn chỉ đóng vai trò cung cấp lao động, cảng biển, hạ tầng kho bãi mà chưa thật sự nắm giữ các mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

3. DỊCH VỤ LOGISTICS CÒN ĐƠN ĐIỆU, HẠN CHẾ VỀ HÀM LƯỢNG GIÁ TRỊ GIA TĂNG

  • Hiện nay, dịch vụ logistics do doanh nghiệp Việt Nam cung cấp chủ yếu tập trung ở mức độ cơ bản như: vận tải hàng hóa, khai báo hải quan, xếp dỡ hàng hóa, lưu kho và giao nhận. Những dịch vụ có hàm lượng giá trị gia tăng cao như: quản trị chuỗi cung ứng tổng thể, dịch vụ logistics tích hợp (3PL, 4PL, 5PL), quản lý đơn hàng điện tử, logistics ngược, quản trị tồn kho tối ưu, tích hợp công nghệ số (AI, IoT, blockchain, RPA trong logistics)… vẫn còn rất ít, hoặc gần như vắng bóng ở nhiều doanh nghiệp trong nước.
  • Sự thiếu đa dạng trong danh mục dịch vụ khiến các doanh nghiệp Việt Nam khó cạnh tranh với các tập đoàn logistics đa quốc gia như DHL, Kuehne + Nagel, DB Schenker, Maersk Logistics… – những doanh nghiệp không chỉ vận chuyển hàng hóa mà còn cung cấp trọn gói giải pháp chuỗi cung ứng cho khách hàng.

4. CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ THẤP, THIẾU CHUẨN HÓA, CHƯA ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ MỘT CÁCH ĐỒNG BỘ

  • Chất lượng dịch vụ logistics ở nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn thấp do thiếu sự chuẩn hóa trong quy trình, nhân sự không được đào tạo bài bản, và hệ thống quản lý chưa chuyên nghiệp. Ngoài ra, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa, phần mềm ERP, TMS (Transportation Management System), WMS (Warehouse Management System) hay giải pháp theo dõi vận đơn real-time vẫn còn manh mún, thiếu đồng bộ và không tương thích giữa các đơn vị.
  • Chính điều này khiến dịch vụ thiếu tính ổn định, dễ xảy ra lỗi, thời gian giao hàng chậm, chi phí vận hành cao và mức độ hài lòng của khách hàng thấp.

5. THIẾU LIÊN KẾT CHẶT CHẼ TRONG NỘI BỘ NGÀNH VÀ VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

Một điểm yếu mang tính hệ thống chính là sự thiếu liên kết – cả chiều dọc và chiều ngang – trong nội bộ ngành logistics Việt Nam.

  • Về chiều ngang: Các doanh nghiệp logistics trong nước chưa có sự hợp tác hoặc phân chia vai trò chuyên môn để tạo thành chuỗi cung ứng dịch vụ tích hợp. Điều này khiến ngành chưa hình thành được mô hình dịch vụ logistics 4PL – nơi một đơn vị đầu mối tổng hợp dịch vụ của các đơn vị thành viên để cung cấp giải pháp tổng thể cho khách hàng.
  • Về chiều dọc: Mối quan hệ giữa doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn rời rạc, thiếu niềm tin và thiếu cơ chế hợp tác lâu dài. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường ưu tiên làm việc với các hãng tàu, forwarder quốc tế do tin tưởng hơn về chất lượng dịch vụ, độ chính xác và khả năng xử lý tình huống.

Hậu quả là năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam bị ảnh hưởng, do phải chi trả các loại phí logistics cao hơn mức trung bình khu vực, trong khi doanh nghiệp logistics trong nước thì tăng trưởng chậm, không tạo được lợi thế thị trường.

6. CHƯA CÓ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN DÀI HẠN VÀ TẦM NHÌN QUỐC TẾ

  • Cuối cùng, nhiều doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn hoạt động theo kiểu “tồn tại ngắn hạn”, không có tầm nhìn dài hạn, thiếu chiến lược bài bản về đổi mới sáng tạo, phát triển thương hiệu, đầu tư công nghệ hay xây dựng mạng lưới toàn cầu. Việc chạy theo hợp đồng ngắn hạn, cạnh tranh bằng giá thay vì giá trị khiến doanh nghiệp dễ rơi vào bẫy lợi nhuận thấp và thiếu năng lực tích lũy cho tái đầu tư.
  • Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chỉ những doanh nghiệp có chiến lược dài hạn, sẵn sàng đầu tư mạnh mẽ vào số hóa, nhân sự chất lượng cao, liên kết chuỗi, và phát triển dịch vụ tích hợp mới có thể bứt phá.
  • Các điểm yếu nói trên không đơn thuần là vấn đề nội tại của từng doanh nghiệp riêng lẻ mà là biểu hiện của sự thiếu đồng bộ trong cả hệ sinh thái logistics Việt Nam. Để khắc phục, cần có sự phối hợp giữa Nhà nước (về chính sách), hiệp hội ngành (về định hướng), doanh nghiệp (về chiến lược đầu tư) và cơ sở đào tạo (về nâng cao nhân lực). Khi các điểm yếu được nhận diện đầy đủ và xử lý một cách hệ thống, ngành logistics Việt Nam hoàn toàn có khả năng vươn lên mạnh mẽ, trở thành trụ cột nâng đỡ thương mại và nâng tầm vị thế quốc gia trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

 


Bạn cũng có thể thích